Chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng nghe qua từ “Sáo” vì nó là 1 nhạc cụ gắn liền với dân tộc Việt Nam của chúng ta từ xa xưa. Nó gắn liền với cảnh vùng quê quen thuộc, cảnh 1 cậu bé ngồi trên lưng 1 con trâu và thổi những nhạc khúc vui tươi. Nhưng có lẽ chúng ta cũng từng nghe qua từ “Tiêu”, vậy nó là gì? Có lẽ chúng ta sẽ nhầm lẫn giữa 2 loại này vì nó có cấu tạo cơ bản khá giống nhau nên chúng ta sẽ dễ bị nhầm lẫn. Thông qua bài viết này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu sơ qua về 2 loại nhạc khí này nhé.
I - Hình Dáng Và Vị Trí Thổi
1. Tiêu
Tiêu thông thường có chiều dài dài hơn Sáo
Đầu Tiêu được cắt ngang, ở viền được khoét một lỗ hình bán nguyệt, người dùng đặt môi dưới lên mặt cắt ngang của đầu tiêu
Chúng ta sẽ cầm thẳng cây Tiêu lên và thổi vào cái lỗ viền này để phát ra âm thanh.
2. Sáo
Sáo có 2 loại chính là Sáo ngang và Sáo dọc.
- Sáo ngang thì lỗ đặt môi nằm cách đầu sáo một khoảng xấp xỉ 10 cm. và dọc theo thân sáo sẽ có nhiều lỗ để người thổi bấm vào lỗ để tạo ra giai điệu cho âm thanh.
- Sáo dọc thì người ta tạo khe bằng cách vót chéo đầu sáo rồi chèn một miếng gỗ cũng được gọt chéo vào, tạo thành chỗ để người dùng ngậm miệng vào thổi.
Cả 2 loại Sáo và Tiêu thường đa số được làm từ gỗ, trúc…. thân dài nên thoạt nhìn thì chúng tương đối giống nhau. Nhưng khi chúng ta quan sát kỹ từ đầu đến đuôi thì chúng có rất nhiều điểm khác nhau.
II - Về Âm Thanh - Âm Sắc
Âm thanh của Tiêu nghe trầm, ấm. Tiêu cũng có nhiều loại tone như sáo ngang. Nó có âm sắc trang nhã, mộc mạc, phù hợp để diễn tả những giai điệu trữ tình, những tình cảm sâu sắc. Hai loại tiêu phổ biến nhất là C và D (tức tiêu đô và tiêu rê), các loại tiêu trầm hơn thường không phổ biến bằng vì khó sử dụng hơn: lỗ bấm cách nhau xa hơn, thổi tốn nhiều hơi...
Tiêu có âm vực khoảng 2 quãng tám. Để viết nhạc cho tiêu các nhạc sĩ có thể viết ở khóa sol hoặc fa, nhưng thường thì ở khóa sol. Tuy nhiên âm vực của tiêu là thấp hơn nốt nhạc được ghi 1 quãng tám. tuy vậy, một số loại tiêu ngày nay đã được cải tiến, âm vực có thể lên tới 3 quãng tám hoặc hơn. Đặc biệt những loại tiêu của Việt Nam có thể chạy đủ 3 quãng tám Chromatic và thêm 2 nốt ở quãng 4 là C4 và C4# (chạy quãng chromatic ở đây được hiểu là thổi liền hơi 1 mạch đủ 12 nốt của quãng).
Đối với sáo mang trong mình âm sắc nhẹ, nhàng bay bổng, vui tươi và vô cùng tự nhiên.
Đầu thổi ở sáo dọc phức tạp hơn gồm 1 đầu để ngậm và 1 lỗ sát ngay dưới để luồng hơi từ đầu thổi tới gặp cạnh dưới của lỗ (hơi sắt) sẽ tạo ra sự chênh áp, từ đó làm dao động cột không khí trong lòng sáo rồi từ đó tạo ra âm thanh.
Sáo ngang dùng trong dàn nhạc hiện nay có ba loại: sáo ngang tông Do (loại tiêu chuẩn), sáo ngang tông Re giáng (âm thanh cao hơn nốt viết ½ cung) và sáo ngang tông Mi giáng (âm thanh cao hơn nốt viết 1 cung ½). Sáo ngang tone Do được dùng trong dàn nhạc giao hưởng, hai loại sau thường dùng trong dàn kèn của Quân nhạc.
Về mặt kỹ thuật, sáo ngang là một thứ nhạc khí rất linh hoạt, chạy được tốc độ nhanh, đáp ứng nhiều lối viết nhạc khác nhau. Dùng sáo ngang rất tốn hơi, nên câu nhạc thường không viết quá dài và phải chú ý dành chỗ lấy hơi.
Nhóm nhạc cụ này còn có piccolo flute, alto flute.
III - Giữa Tiêu Và Sáo Thì Loại Nào Khó Thổi Hơn ?
Đối với những bài hát trầm buồn thường sẽ dùng tiêu, nhanh vui thì dùng sáo
Sáo và Tiêu có thể hòa tấu cùng nhau để tạo nên một bản nhạc đặc sắc hơn
Sáo, tiêu thổi một mình dẫu hay vẫn thấy đơn điệu vì là nhạc khí đơn âm
Sáo tiêu đều có khả năng hoà tấu với nhạc cu khác.
Thổi sáo hay rồi thì chuyển sang tiêu sẽ dễ dàng hơn.
Tiêu thì âm trầm, nghe buồn, ai oán
Sáo thì véo von, nhanh réo rắt, ríu rít như chim
Khi thổi Tiêu, người ta sẽ cầm dọc ống tiêu và tỳ cằm vào gần lỗ thổi để tạo ra âm thanh. Kỹ thuật diễn giống như sáo ngang, tuy nhiên không thích hợp khi dùng ngón phi, ngón lướt, ngón đánh lưỡi hay ngón vuốt hơi... Âm bội cũng hiếm khi được thực hiện. Tuy nhiên từ khi được cải tiến để chạy đủ 3 quãng tám Chromatic và thêm 2 nốt quãng 4 là C4, C4#, thì tiêu ngày càng áp dụng nhiều kỹ thuật lướt ngón nhanh của Flute.
Khi ta thổi sáo, cột khí bên trong ống sáo bị dao động và phát ra âm thanh. Âm thanh đó cao (bổng) hay thấp (trầm) phụ thuộc vào khoảng cách từ miệng sáo tới lỗ mở mà ngón tay vừa nhấc lên.
*Lưu ý: thứ tự ngón được tính bắt đầu từ lỗ thổi (hiểu ngầm 0).
Sáu ngón tay bịt kín sáu lỗ, thổi nhẹ ra nốt Đô.
Mở tiếp ngón thứ sáu, thổi nhẹ ra nốt Rê.
Mở tiếp ngón thứ năm, thổi nhẹ ra nốt Mi.
Mở tiếp ngón thứ tư, thổi nhẹ ra nốt Fa.
Mở tiếp ngón thứ ba, thổi nhẹ ra nốt Sol.
Mở tiếp ngón thứ hai, thổi nhẹ ra nốt La.
Mở tiếp ngón cuối cùng, thổi nhẹ ra nốt Si.
Ngoài việc chơi sáo bằng miệng, một số người (như dân tộc hay người khuyết tật hay cả nghệ sĩ) còn chơi sáo bằng mũi, một điều vô cùng phi thường mà không phải ai cũng làm được.
Mong rằng qua bài viết này sẽ giúp cho các bạn hiểu rõ hơn về 2 loại nhạc khí này
Nguồn hình ảnh: https://solg.vn/ https://www.cmias.cz/
Tác giả bài viết: Huỳnh Sơn YT
Học viên Thầy Đoàn Nhược Quý
ความคิดเห็น